Satan, quỷ, Ác thần, tà thần trong Kinh Thánh
Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Nội dung
Dẫn nhập
I. Từ ngữ
1. Satan (Satanas), quỷ (diabolos)
2. Quỷ (daimonion), thần ô uế(pneuma to akathaton)
3. Ác thần (ponêros), tà thần (pneuma to ponêron)
II. Satan, quỷ (diabolos) trong Cựu Ước và giữa hai Giao Ước
1. Satan trong thế giới con người
2. Satan ở thượng giới, tiến triển qua ba bước
a) Vai trò “công tố viên” trước toà ở thượng giới
b) Thử thách con người
c) Đưa tội vào thế gian
III. Satan, quỷ (diabolos) trong Tân Ước
1. Trong Tin Mừng Nhất Lãm
2. Trong Tin Mừng Gioan
3. Trong sách Khải Huyền
IV. Quỷ (daimonion) trong Cựu Ước và giữa hai Giao Ước
V. Quỷ (daimonion), thần ô uế, Ác thần, tà thần trong Tân Ước
1. Trong bốn Tin Mừng, Kh và Cv
2. Ác thần (ponêros) và Satan
3. Những việc xấu xa (ponêra ta erga)
Kết luận
Dẫn nhập
Bài viết này bàn đến các từ ngữ: Satan, quỷ, Ác thần, thần ô uế, tà thần trong Cựu Ước, trong các tài liệu giữa hai Giao Ước, trong Tân Ước qua năm mục: (I) từ ngữ; (II) Satan, quỷ (diabolos) trong Cựu Ước và các bản văn giữa hai Giao Ước; (III) Satan, quỷ (diabolos) trong Tân Ước; (IV) quỷ (daimonion) trong Cựu Ước và giữa hai Giao Ước; (V) quỷ (daimonion), thần ô uế, Ác thần, tà thần trong Tân Ước. Bài viết chỉ là trình bày sơ lược đề tài rộng lớn này trong Kinh Thánh.
Trích dẫn Kinh Thánh trong NPD/CGKPV, Kinh Thánh, ấn bản 2011, một số câu trong Tân Ước lấy theo Kinh Thánh Tân ước, bản dịch có hiệu đính của NPD/CGKPV, 2008, riêng Tin Mừng Marcô, Tin Mừng Gioan, Ba thư Gioan và Sách Khải Huyền lấy trong bản dịch song ngữ của Giuse Lê Minh Thông; Các trích dẫn bản văn giữa hai Giao Ước, tài liệu Qumran và nguỵ thư Cựu Ước, được dịch từ A. Dupont-Sommer; M. Philonenko, (dir.), La Bible, écrits intertestamentaires, (Bibliothèque de la Pléiade), Paris, Gallimard, 1987.
I. Từ ngữ
Phần này giải thích các từ ngữ qua ba điểm: (1) Satan (Satanas), quỷ (diabolos); (2) quỷ (daimonion), thần ô uế (pneuma to akathaton); (3) Ác thần (ponêros), tà thần (pneuma to ponêron).
1. Satan (Satanas), quỷ (diabolos)
“Satan” là chuyển âm tiếng Việt từ tiếng Hipri (שָׂטָן), chuyển âm sang tiếng Hy Lạp là “satan” hay “satanas”. Từ “diabolos” (quỷ) tương đương với từ “Satan” trong tiếng Hipri, bởi vì bản Bảy Mươi (LXX) dịch từ “Satan” sang tiếng Hy Lạp là “diabolos”. Chẳng hạn, từ “Satan” ở 1V 11,14 trong bản văn Hipri được chuyển âm trong bản LXX là “satan” (không dịch). Trong Tv 109(108),6: “Xin cho kẻ dữ nổi lên chống nó, bên phải nó, đặt một người cáo tội (satan) đứng kèm”, từ “người cáo tội” là “Satan” trong tiếng Hipri, được dịch trong bản LXX là “diabolos”. Bản LXX dịch tương tự như thế ở Dcr 3,1-5; G 1,1-12; 1Sb 21,1. Như thế, bản LXX dịch từ “Satan” trong tiếng Hipri sang tiếng Hy Lạp là “diabolos” (quỷ); nói cách khác, Satan và quỷ là một nhân vật.
Sách Khôn Ngoan, không viết bằng tiếng Hipri mà viết bằng tiếng Hy Lạp, cho biết ở Kn 2,24: “Nhưng chính vì quỷ dữ (diabolou) ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.” Câu này dùng từ “diabolos”, dịch sang tiếng Việt là “quỷ”.
Nói chung từ “diabolos” (quỷ) trong Tân Ước đồng hoá với Satan. Tuy nhiên có một vài nơi dùng theo nghĩa giảm nhẹ. Theo ngôn ngữ thông thường thời đó, “diabolos” còn có nghĩa là “người nói xấu” (médisant). Chẳng hạn, Phaolô viết trong thư gửi Titô ở Tt 2,3: “Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu (mê diabolous), không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành.” Xem từ “diabolos” theo nghĩa “nói xấu” ở 1Tm 3,11; 2Tm 3,3.
2. Quỷ (daimonion), thần ô uế (pneuma to akathaton)
Tiếng Việt dịch danh từ Hy Lạp “diabolos” là “quỷ” (le diable). Một danh từ Hy Lạp khác là “daimôn”, tính từ là “daimonion”, dịch sang tiếng Pháp là “démon”, nhưng tiếng Việt vẫn dịch là “quỷ”. Theo thần thoại Hy Lạp, quỷ thuộc loài linh thiêng (être surnaturel), tốt hoặc xấu. Theo nghĩa thông thường, “quỷ” (daimonion) là thiên sứ bị truất phế, có tà ý và chống lại Thiên Chúa. Khi “daimonion” dùng với mạo từ xác định có nghĩa Satan, là thủ lãnh của quỷ, thủ lãnh của các thiên sứ phản nghịch chống lại Thiên Chúa. (Xem mục từ “démon” trong Le Petit Robert, 2001). Trong Kinh Thánh, danh từ giống đực tiếng Hy Lạp “daimôn” (quỷ) chỉ xuất hiện hai lần ở Is 66,11 (bản LXX) và Mt 8,31. Tất cả những nơi khác trong Kinh Thánh tiếng Hy Lạp, dùng tính từ “daimonion” có nghĩa như danh từ, ở số ít hay số nhiều, để nói về “quỷ”.
“Thần ô uế” (pneuma to akathaton), được ghép bởi danh từ Hy Lạp “pneuma” (thần khí) và tính từ “akathartos” (không sạch, ô uế, unclean), từ này phản nghĩa của tính từ “katharos” (sạch, clean). Đức Giêsu ban quyền trừ thần ô uế cho các môn đệ ở Mt 10,1: “Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế (pneumatôn akathartôn), để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.” Trong Tin Mừng Nhất Lãm có nhiều trình thuật trừ thần ô uế và tương đương với trình thuật trừ quỷ. Xem phân tích trong mục “quỷ, thần ô uế trong Tân Ước” dưới đây.
3. Ác thần (ponêros), tà thần (pneuma to ponêron)
Tính từ Hy Lạp “ponêros” có nghĩa thông thường là “xấu”, chẳng hạn như “quả xấu”, “quả tốt” trong dụ ngôn cây nào trái ấy (Mt 7,15-20). Đức Giêsu nói ở Mt 7,17: “Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu (ponêrous) thì sinh quả xấu.” Tính từ “ponêros” (xấu) còn được dùng như danh từ để nói về “người xấu”, “người tốt” như trong dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-10). Người thuật chuyện kể ở Mt 22,10: “Đầy tớ (của nhà vua) liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu (ponêrous) tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.” Cách dùng khác của từ “ponêros” (xấu) trong Tân Ước theo nghĩa đặc biệt: “ponêros” là “Ác thần” đồng hoá với Satan.
Nếu như “Ác thần” (ponêros) là “quỷ” (diabolos) thì “thần ô uế” (pneuma to akathaton) được đồng hoá với “tà thần” (pneuma to ponêron). Tin Mừng Gioan còn dùng cụm từ “những việc xấu xa” (ponêra ta erga) để gợi về “những việc của quỷ”. Xem phân tích trong mục: “Ác thần, tà thần trong Tân Ước” dưới đây.
II. Satan, quỷ (diabolos)
trong Cựu Ước và giữa hai Giao Ước
Cụm từ “giữa hai Giao Ước” là các bản văn Do Thái được viết sau các sách trong bộ Cựu Ước và trước hay cùng thời với các bản văn Tân Ước. Các tài liệu trong gian đoạn này cùng với tài liệu Qumran và nguỵ thư Cựu Ước được sưu tập trong tác phẩm: A. Dupont-Sommer; M. Philonenko, (dir.), La Bible, écrits intertestamentaires, 1987. Satan là quỷ (diabolos) nên trình bày chung. Trong Cựu Ước, nghĩa của từ “Satan” tiến triển qua hai giai đoạn: (1) Satan là con người ở trần gian, (2) Satan là thiên thần ở thượng giới.
1. Satan trong thế giới con người
Trong Cựu Ước, Satan chỉ về kẻ đối nghịch (adversaire) giữa con người với nhau. Chẳng hạn, Đavít nói với ông Avisai, con bà Xơrugia, mà Đavít gọi là “Satan” (người chống đối) ở 2Sm 19,23: “Chuyện của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xơrugia, khiến hôm nay các ngươi trở nên người chống đối (Satan) ta? Hôm nay mà lại có người trong Israel bị xử tử sao? Ta chẳng biết rằng hôm nay ta là vua Israel sao?” Ở 1V 11,25, từ “Satan” được áp dụng cho vua Xyri là kẻ thù nghịch với vua Salomon: “Điều ác của Hađát là ông gớm ghét Israel mà ông lại làm vua cai trị Êđôm. Ông là kẻ thù nghịch (Satan) với Israel suốt thời vua Salomon.” Xem cách dùng từ “Satan” theo nghĩa này ở 1Sm 29,4; 1V 11,14.23.
Trong Thánh Vịnh 109(108), có 3 lần động từ “tố cáo” (tiếng Hipri là động từ “satan”) ở Tv 109,4.20.29 và một lần danh từ “kẻ tố cáo” (tiếng Hipri là danh từ “satan”) ở Tv 109,6. Tác giả viết ở Tv 109,6-7: “6 Xin cho kẻ dữ nổi lên chống nó, bên phải nó, đặt một người cáo tội (satan) đứng kèm. 7 Ước gì nó phải mang án khi ra khỏi cửa công, và lời xin ân xá thành lời buộc tội.” Động từ “tố cáo” (satan) xuất hiện ở Tv 109,29: “Ước gì những kẻ tố cáo con bị phủ đầy nhục nhã, bị xấu hổ trùm lên như chiếc áo choàng.” Xem cách dùng động từ “satan” theo nghĩa này ở Tv 38(37),21.
Như thế, từ “Satan” là danh từ chung để nói về kẻ đối nghịch (adversaire) giữa con người với nhau hay kẻ tố cáo (accusateur) trước toà. Ở giai đoạn này, Satan là con người trong thế giới loài người. Thực tế ở hạ giới này được dùng để diễn tả những thực tại thượng giới. Satan là một thiên sứ (aggelos) ở trên trời.
2. Satan ở thượng giới, tiến triển qua ba bước
Satan là một thiên sứ có nhiệm vụ cụ thể ở trên trời và tiến triển qua ba bước: (a) vai trò “công tố viên” trước toà ở thượng giới; (b) thử thách con người; (c) đưa tội vào thế gian và trở thành thiên sứ phản nghịch, chống lại Thiên Chúa.
a) Vai trò “công tố viên” trước toà ở thượng giới
Satan có nhiệm vụ chính đáng trước toà ở thượng giới. Satan là một thiên sứ giữ vai trò “buộc tội” trong các phiên toà ở trên trời. Vai trò “công tố viên” của Satan được thuật lại trong sách ngôn sứ Dacaria ở 3,1-5: “1 Người (Đức Chúa) lại cho tôi thấy thượng tế Giêsua đang đứng trước mặt thần sứ của ĐỨC CHÚA; còn Satan đứng bên phải ông để tố cáo ông. 2 Thần sứ của ĐỨC CHÚA nói với Satan: ‘Ước gì ĐỨC CHÚA trừng phạt ngươi, hỡi Satan; ước gì ĐỨC CHÚA, Đấng đã tuyển chọn Giêrusalem, trừng phạt ngươi, hỡi Satan; ước gì ĐỨC CHÚA, Đấng đã tuyển chọn Giêrusalem, trừng phạt ngươi. Người này lại chẳng phải là thanh củi đã được kéo ra khỏi lửa sao?’ 3 Bấy giờ, ông Giêsua, áo xống dơ bẩn, đứng trước mặt vị thần sứ. 4a Vị này lên tiếng nói với những người đang đứng trước mặt mình rằng: ‘Hãy cởi áo dơ bẩn của ông ấy ra, 4c và mặc cho ông lễ phục huy hoàng. Hãy đội lên đầu ông ấy mũ tế thanh sạch.’ 5 Người ta đã đội lên đầu ông mũ tế thanh sạch và mặc cho ông áo xống thanh sạch, trong khi đó thần sứ của ĐỨC CHÚA đứng 4b và nói với ông: ‘Này, ta đã gỡ tội cho ngươi.’” (Dcr 3,4 chia thành 4a, 4b, 4c theo bản LXX và sắp xếp lại cho dễ hiểu).
Trong đoạn văn trên, Satan là “công tố viên” trước toà ở thượng giới (Dcr 3,1). Vai trò luật sư bào chữa, tức là người bênh vực bị cáo (thượng tế Giêsua) ở đây là “thần sứ của ĐỨC CHÚA” (Dcr 3,2a). Cho dù những lời buộc tội của Satan bị thần sứ ĐỨC CHÚA bác bỏ (Dcr 3,2), nhưng trong giai đoạn này, nhiệm vụ “công tố viên” của Satan trong các phiên toà ở trên trời là chính đáng. Satan là một thiên sứ, một thụ tạo ở thượng giới, có nhiệm vụ đưa ra những lý chứng để kết tội những ai bị cho là phạm tội.
Trong nguỵ thư Cựu Ước (Pseudégraphes), sách I Hénoch XL,7 nói về Satan ở số nhiều: “Tiếng nói thứ tư [của thiên sứ Phanouël] mà tôi (Hénoch) đã nghe là đẩy lùi các Satan và cấm chúng tiến lại gần Đức Chúa các thần khí (le Seigneur des Esprits) để vu khống dân cư trên trái đất.” Tiếng nói thứ tư ở đây là của thiên sứ Phanouël (I Hénoch XL,9d). Ba tiếng nói trước đó là của các thiên sứ Michel, Raphaël và Gabriel (I Hénoch XL,9). Bốn tiếng nói này được nghe trong bối cảnh thị kiến dành cho Hénoch: “Kế đến, tôi đã thấy ngàn ngàn, vạn vạn, vô số, không đếm xuể, những vị đứng trước nhan Đức Chúa các thần khí” (I Hénoch XL,1). Ở I Hénoch XL,7 trên đây, thiên sứ Phanouël đẩy lùi các Satan. Tác giả P. de Martin de Vivié giải thích: “Ở đây, từ ‘Satan’ được dùng như danh từ chung và có thể để ở số nhiều để nói về cùng nhiệm vụ của Satan đã nói đến trong sách Dacaria hay sách Gióp.” (P. de Martin de Viviés, Apocalypses et cosmologie du salut, (Lectio Divina), Paris, Le Cerf, 2002, p. 119). Trong giai đoạn tiếp theo, Satan không chỉ là “công tố viên” trước toà trên trời nữa mà là kẻ thử thách con người ở hạ giới, đó là trường hợp ông Gióp.
b) Thử thách con người
Satan là một thiên sứ trên trời, muốn thử thách con người ở dưới đất và làm cho con người bị vấp ngã. Satan ở giai đoạn này được thuật lại trong sách Gióp. Nhân dịp Satan đến trình diện ĐỨC CHÚA, Người nói với Satan ở G 1,8: “Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác!” Nhưng Satan đáp lại ĐỨC CHÚA ở G 1,9b-11: “9b Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng? 10 Chẳng phải chính Ngài đã bao bọc, chở che nó tư bề, nó cũng như nhà cửa và tài sản của nó sao? Ngài đã ban phúc lành cho công việc do tay nó làm, và các đàn súc vật của nó lan tràn khắp xứ. 11 Ngài cứ thử giơ tay đánh vào mọi tài sản của nó xem, chắc chắn là nó nguyền rủa Ngài thẳng mặt!” ĐỨC CHÚA phán với Satan ở G 1,12a: “Được, mọi tài sản của nó thuộc quyền ngươi, duy chỉ có con người của nó là ngươi không được đưa tay đụng tới.”
Phần tiếp theo kể lại cuộc đời của Gióp, ông đã trải qua những thử thách và đau khổ đến tột cùng. Con cái của ông đều chết, của cải không còn gì, sức khoẻ cạn kiệt. Trong đau khổ lớn lao về tinh thần và thể lý, Gióp vẫn trung tín với ĐỨC CHÚA. Satan đã không thành công trong việc làm cho Gióp vấp ngã. Nhưng Satan đã thành công trong trường hợp vua Đavít, được thuật lại ở 1Sb 21,1.
c) Đưa tội vào thế gian
(3) Satan đã đưa tội vào thế gian. Satan là kẻ cám dỗ con người phạm tội. Tác giả sách Sử biên niên cuốn thứ nhất viết ở 1Sb 21,1: “Satan đứng lên chống Israel và xúi giục vua Đavít thống kê dân số Israel.” Trong câu này, từ Hipri “Satan” không có mạo từ, trong khi ở Dcr 3,1-5 và G 1,1-12 có mạo từ. Nên từ “Satan” ở 1Sb 21,1 là tên riêng, nói về kẻ chống lại Israel. Câu 1Sb 21,1 gán việc “xúi giục vua Đavít thống kê dân số” cho Satan trong khi sách Samuen quyển thứ hai (2Sm 24,1) cho rằng “cơn giận của ĐỨC CHÚA” đã làm điều này. Tác giả viết ở 2Sm 24,1: “ĐỨC CHÚA lại nổi giận với Israel, và Người xúi giục vua Đavít gây hoạ cho họ. Người phán: ‘Hãy đi đếm dân Israel và người Giuđa.’” Sự khác nhau giữa 1Sb 21,1 và 2Sm 24,1 cho thấy thần học sách Sử Biên Niên muộn thời hơn và giải thích lại điều đã viết trong sách Samuen. P. de Martin de Vivié nhận xét: “Sự biến đổi này cho thấy ưu tư đầu tiên của tác giả sách Sử Biên Niên là đưa ĐỨC CHÚA ra khỏi sự kết tội đã xúi dục bằng cách cám dỗ Đavít và đẩy vua đến phạm tội. Thay vào chỗ ĐỨC CHÚA, hình ảnh đơn giản nhất để đưa Thiên Chúa ra khỏi trách nhiệm (xúi dục Đavít) là Satan.” (P. de Martin de Viviés, Apocalypses et cosmologie du salut, 2002, p. 115).
Trong sách Khôn Ngoan (Kn 2,23-24), Satan đã đưa sự chết vào trần gian. Đây là bước quyết định làm cho Satan trở thành kẻ bất tuân lệnh Thiên Chúa, trở thành thiên sứ bị truất phế. Tác giả sách Khôn Ngoan viết ở 2,23-24: “23 Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. 24 Nhưng chính vì quỷ dữ (diabolou) ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.” Ở đây, tác giả dùng danh từ Hy Lạp “diabolos” (quỷ) để nói về “Satan” là tiếng Hipri (xem mục I. Từ ngữ). Sách Khôn Ngoan được viết bằng tiếng Hy Lạp vào khoảng giữa thế kỷ I TCN. Vậy sách Khôn Ngoan là sách được viết sau cùng của bộ Cựu Ước. Ở Kn 2,24, nhiệm vụ của Satan (quỷ) không còn là công tố viên của toà án trên trời để phục vụ Thiên Chúa nữa. Satan đã trở thành thiên sứ phản nghịch, chống lại chương trình của Thiên Chúa bằng cách đưa sự chết vào thế gian.
Nguỵ thư Cựu Ước (Pseudégraphes), nói về Satan với từ ngữ khác. Chẳng hạn, Satan được trình bày như thủ lãnh các thiên sứ phản nghịch ở Martyre d’Isaïe, II,2: “Massasé thôi không phục vụ Thiên Chúa của cha ông mình mà phục vụ Satan, các thiên sứ của nó và những thế lực của nó.” Martyre d’Isaïe, là một tài liệu hỗn hợp. Trong đó phần muộn thời có thể viết vào thời Tân Ước. Câu Martyre d’Isaïe, II,2 có thể là do Kitô hữu viết. (Xem chú thích câu Martyre d’Isaïe, II,2 trong A. Dupont-Sommer; M. Philonenko, (dir.), La Bible, écrits intertestamentaires, 1987, p. 1026).
Satan trong các bản văn giữa hai Giao Ước (les écrits intertestamentaires), còn mang những tên khác như: Bélial, Thiên sứ thù nghịch (l’Ange d’hostilité) ở 1QM XIII,11 (1QM: Règlement de la Guerre), CD XVI,5 (CD: Document de Damas), Thiên sứ bóng tối (l’Ange des ténèbres) ở 1QS III,20-21 (1QS: Règle de la Communauté), Mastéma ở Jubilés X,8-11; XI,5.11; XVII,16.
III. Satan, quỷ (diabolos) trong Tân Ước
Tương tự như Cựu Ước, Tân Ước đồng hoá Satan với quỷ (diabolos) và còn dùng một số từ khác để nói về Satan. Phần này trình bày ba điểm: (1) Satan, quỷ (diabolos) trong Tin Mừng Nhất Lãm; (2) trong Tin Mừng Gioan; (3) trong sách Khải Huyền.
1. Trong Tin Mừng Nhất Lãm
Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang mạc (Mc 1,13; Mt 4,10). Ở Lc 10,19, từ “kẻ thù” (ekhthros) nói về Satan. Sau khi Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi rao giảng (Lc 10,1-16), câu chuyện kể tiếp ở Lc 10,17-20: “17 Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ (daimonia) cũng phải khuất phục chúng con.’ 18 Đức Giêsu bảo các ông: ‘Thầy đã thấy Satan (satanan) như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù (ekhthrou), mà chẳng có gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì các thần dữ (pneumata) phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.” Trong đoạn văn này, Luca dùng từ “daimonia” (quỷ, số nhiều), “satanan” (Satan), “ekhthros” (kẻ thù) và “pneumata” (các thần khí). Trong mạch văn câu “các thần khí (pneumata) phải khuất phục anh em” (Lc 10,20b) gợi đến lời các môn đệ nói ở Lc 10,17b: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ (daimonia) cũng phải khuất phục chúng con.” Vậy “các thần khí” ở Lc 10,20b là “quỷ” (daimonia), là “các thần ô uế” hay “các tà thần”. Ở Lc 10,19, “thế lực Kẻ Thù (ekhthrou)” là thế lực của Satan.
Ở Mt 13,39, quỷ được gọi là Ác thần (ponêros) và Kẻ Thù (ekhthros). Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ dụ ngôn cỏ lùng ở Mt 13,37-39: “37 Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. 38 Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần (ponêrou). 39 Kẻ thù (ekhthros) đã gieo cỏ lùng là quỷ dữ (diabolos). Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần.” Vậy Tin Mừng Nhất Lãm dùng từ “Kẻ thù” (ekhthros) theo nghĩa kẻ chống đối để nói về Satan.
Đức Giêsu đồng hoá Phêrô và Giuđa (Ga 6,70, xem dưới đây) với Satan. Câu chuyện về Phêrô được thuật lại ở Mc 8,31-33: “31 Và Người (Đức Giêsu) bắt đầu dạy các ông (các môn đệ) rằng: Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị loại bỏ bởi các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư, Người bị giết chết và sau ba ngày, Người sống lại. 32 Một cách không úp mở, Người nói Lời cho họ. Phêrô kéo Người ra và bắt đầu trách Người. 33 Nhưng khi quay lại và thấy các môn đệ của Người, Người trách Phêrô và nói: “Hãy đi sau Thầy, Satan, vì anh không suy nghĩ theo suy nghĩ của Thiên Chúa, nhưng theo suy nghĩ của loài người.”
2. Trong Tin Mừng Gioan
Tin Mừng Gioan định nghĩa quỷ trong ch. 8, Đức Giêsu nói với những người Do Thái ở Ga 8,44: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông. Ngay từ đầu, nó đã là kẻ sát nhân, và nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói, nó nói theo bản tính của nó là sự gian dối, vì nó là kẻ nói dối, và là cha của sự gian dối.” Quỷ là cha của những người Do Thái thay vì Thiên Chúa là vì họ chống lại Đức Giêsu và đang tìm cách giết Người (Ga 8,37.40). Ở Ga 8,44, quỷ có bốn đặc tính: (1) cha của những kẻ chống đối và bách hại Đức Giêsu; (2) sát nhân ngay từ lúc khởi đầu; (3) không có sự thật ở nơi mình; (4) nói dối và là cha sự gian dối. Nếu như những người Do Thái trong đoạn văn Ga 8,31-47 có cha là quỷ, thì thế gian thù ghét ở đoạn văn Ga 15,18–16,4a có “thủ lãnh thế gian” (Ga 12,31; 14,30; 16,11). Theo Tin Mừng Gioan, “thủ lãnh thế gian” đồng hoá với quỷ và Satan.
Từ “Satan” chỉ xuất hiện một lần trong Tin Mừng Gioan ở Ga 13,27 và liên hệ với “quỷ” (diabolos) ở 13,2. Trong trình thuật Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và về Giuđa nộp Thầy (13,21-30), hai câu mở đầu và kết thúc đoạn văn 13,1-30 nói đến liên hệ giữa Giuđa với quỷ và Satan. Người thuật chuyện cho biết ở 13,2: “Trong bữa ăn, quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon Iscariot, ý định nộp Người (Đức Giêsu).” Cuối đoạn văn người thuật chuyện kể ở 13,27a: “Và khi nhận miếng bánh, Satan liền nhập vào ông ấy (Giuđa).” Cuối cùng Giuđa ra đi để thực hiện ý định của Satan ở 13,30: “Sau khi nhận lấy miếng bánh, ông ấy (Giuđa) đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối.”
Ở Ga 6,70, Đức Giêsu nói với Nhóm Mười Hai: “Chẳng phải chính Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em là quỷ (diabolos).” Người thuật chuyện giải thích ở 6,71: “Người (Đức Giêsu) nói về Giuđa, con ông Simon Iscariot; vì ông ấy sẽ nộp Người, một người trong Nhóm Mười Hai.”
Cả hai trường hợp, Phêrô (Mc 8,31-33) và Giuđa (6,70) đều có liên hệ với biến cố Thương Khó của Đức Giêsu. Phêrô đề nghị Đức Giêsu xa rời biến cố này, còn Giuđa lại đẩy Đức Giêsu vào biến cố Thương Khó bằng cách nộp Thầy. Cả hai môn đệ này bị gọi là Satan, một người do suy nghĩ theo loài người (Phêrô) một người do hành động nộp Thầy (Giuđa).
3. Trong sách Khải Huyền
Sách Khải Huyền đồng hoá Satan với nhiều tên gọi khác nhau ở Kh 12,9. Cuộc chiến trên trời được thuật lại ở Kh 12,7-9: “7 Và đã xảy ra cuộc giao chiến trên trời: Micaen và các thiên sứ của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà và các thiên sứ của nó giao chiến. 8 Nhưng nó không mạnh, không còn tìm thấy chỗ của chúng trên trời nữa. 9 Con Mãng Xà lớn đã bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, được gọi là Quỷ và Satan, kẻ mê hoặc toàn thể địa cầu. Nó đã bị tống xuống đất, các thiên sứ của nó cũng đã bị tống xuống với nó.” Trong đoạn văn này, Satan là thủ lĩnh của các thiên sứ phản nghịch. Trong cuộc chiến giữa “Micaen và các thiên sứ của người” với “Con Mãng Xà và các thiên sứ của nó”, lực lượng của Con Mãng Xà không đủ mạnh nên “Con Mãng Xà và các thiên sứ của nó” đã thất bại và bị tống xuống đất, không được ở trên trời nữa. Con Mãng Xà trong Khải Huyền được đồng hoá với “Quỷ và Satan, kẻ mê hoặc toàn thể địa cầu” (Kh 12,9b).
IV. Quỷ (daimonion) trong Cựu Ước
và giữa hai Giao Ước
Phần trên đã trình bày “quỷ” (diabolos) Trong Cựu Ước. Bản LXX dịch nhiều từ Hipri bằng từ “daimonion” (quỷ). Chẳng hạn, từ Hipri “sed” ở Đnl 32,17 được dịch trong bản LXX là “daimonion” (quỷ). Trong bài ca của Môsê (Đnl 32), ông nói về dân Israel ở Đnl 32,17: “Chúng tế những quỷ (sedim) không phải là Thiên Chúa, tế những thần chúng không biết, những thần mới, vừa mới đến, mà cha ông các ngươi đã không khiếp sợ.” “Những quỷ” (sedim) trong câu này nói chung là các thần bảo vệ. Chỉ sau này, vào thời talmud (giải thích và tranh luận của các Rapbi về Lề Luật), “sed” (quỷ) trở thành thần giả, thần xấu, tà thần. (Xem mục từ “démon” trong Dictionnaire encyclopédique de la Bible (DEB), Centre Informatique et Bible Abbaye de Maredsous, (dir.), (3è éd. rev. et aug.), Turnhout, Brepols, 2002). Có những từ Hipri khác mà bản LXX dịch là “quỷ” như “thần Gát” (Is 65,11), “hư ảo” (Tv 96(95),5), “mèo rừng” hay các loài thú ăn đêm (Is 34,14), “dê đực” (Is 13,21), quỷ Lilit là con quỷ cái thường ở nơi hoang tàn (Is 34,14), thần dịch bệnh (Kb 3,5; Tv 91(90),6), quỷ Adadên (Lv 16,8.10.26). (Xem DEB). Sách Tôbia nói đến “ác quỷ Atmôđaiô” (Tb 3,8.17).
Trong tài liệu Qumran, quỷ (daimonion) là các thần ô uế, chúng theo Satan và phục vụ Satan. Chẳng hạn, các thiên sứ chống lại Thiên Chúa được gọi là “các thiên sứ huỷ diệt” ở 1QM XIII,11-12a: “Và Ngài (Hoàng tử ánh sáng) Ngài đã làm ra Bélial cho Hố sâu, Thiên sứ thù nghịch và khước từ, [với chương trình] của nó và với ý đồ của nó, người ta phạm tội báng bổ, phạm những sai lầm, và tất cả thần khí thuộc về nó là các thiên sứ huỷ diệt.” (Những từ trong ngoặc vuông [ ] được thêm vào vì đã bị hư hỏng trong thủ bản). Trong nguỵ thư Cựu Ước (Pseudégraphes), Jubilés X,8.11, đặt song song giữa Mastéma và Satan, các thần khí phục quyền Mastéma được gọi là “tà thần (les esprits mauvais)” (Jubilés X,11), hay “thần đồi bại (les esprits pervers)” (Jubilés XI,4).
Tóm lại Kinh Thánh bản LXX dùng từ “daimonion” (quỷ) để nói về nhiều thực tại như: thú ăn đêm, dê đực, một số thần ngoại bang hay quỷ như Adadên, Atmôđaiô. Phần lớn từ “daimonion” chỉ thế lực siêu tự nhiên (surnaturelle) làm nguy hại đến lòng tin của Israel vào Thiên Chúa đích thực.
V. Quỷ (daimonion), thần ô uế,
Ác thần, tà thần trong Tân Ước
Phần này trình bày ba điểm: (1) Quỷ (daimonion), thần ô uế, Ác thần, tà thần trong bốn Tin Mừng, sách Khải Huyền và Công Vụ các Tông Đồ; (2) Ác thần (ponêros) và Satan; (3) những việc xấu xa (ponêra ta erga).
1. Trong bốn Tin Mừng, Kh và Cv
Quỷ (daimonion), thần ô uế (pneuma to akathaton), tà thần (pneuma to ponêron) trong bốn Tin Mừng, sách Khải Huyền và Công Vụ các Tông Đồ được trình bày qua ba ý: (1) trừ quỷ (daimonion) và trục xuất thần ô uế (pneuma to akathaton); (2) “thần ô uế” (pneuma to akathaton) và “tà thần” (pneuma to ponêron); (3) những kẻ chống đối nói Đức Giêsu có quỷ và thần ô uế.
(1) Trong Tin Mừng Nhất Lãm, trừ quỷ (daimonion) và trục xuất thần ô uế (pneuma to akathaton) là một trong những hoạt động quan trọng của Đức Giêsu. Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại nhiều trình thuật trừ thần ô uế. Dưới đây là một số đoạn văn. Tin Mừng Marcô tóm kết hoạt động của Đức Giêsu ở Mc 1,39: “Rồi Người (Đức Giêsu) đến rao giảng trong các hội đường của họ trong khắp miền Galilê và trừ quỷ (daimonia).” Trong trình thuật trừ quỷ song song Mc 1,21-28 và Lc 4,31-37, Marcô nói đến “thần ô uế (pneuma akatharton)” (Mc 1,23.26), còn Luca lại dùng kiểu nói: “quỷ thần ô uế (pneuma daimonion akathartou)” (Lc 4,33). Trong Tin Mừng Marcô, Đức Giêsu ban quyền trừ quỷ cho các môn đệ ở Mc 3,14-15: “14 Người thiết lập Nhóm Mười Hai [những kẻ Người đặt tên là Tông Đồ] để các ông ở với Người và để Người sai họ đi rao giảng 15 và có quyền trừ quỷ (ta daimonia).” Các môn đệ đã thực hiện việc trừ quỷ ở Mc 6,13: “Các ông trừ nhiều quỷ (daimonia), xức dầu nhiều người đau ốm và chữa lành họ.” Trong đoạn văn song song với Tin Mừng Matthêu, Đức Giêsu ban quyền trừ thần ô uế cho các môn đệ ở Mt 10,1: “Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế (pneumatôn akathartôn), để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.” Ở Kh 14,6, tác giả nói đến “những thần khí của quỷ (pneumata daimoniôn).” Tóm lại, trong Tin Mừng Nhất Lãm trục xuất thần ô uế tương đương với trục xuất quỷ. Kiểu nói “thần ô uế” quen thuộc với ngôn ngữ Hipri, còn “quỷ” (daimonion) là kiểu nói trong ngôn ngữ Hy Lạp.
(2) Trong Tin Mừng Nhất Lãm, “thần ô uế” (pneuma to akathaton) được đồng hoá với “tà thần” (pneuma to ponêron). Tin Mừng Luca thuật lại những gì Đức Giêsu đã làm ở 7,21: “Chính giờ ấy, Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi tà thần (pneumatôn ponêrôn), và ban ơn cho nhiều người mù được thấy.” Tin Mừng Marcô tóm kết hoạt động của Đức Giêsu ở Mc 1,39: “Rồi Người (Đức Giêsu) đến rao giảng trong các hội đường của họ trong khắp miền Galilê và trừ quỷ (daimonia).” Như thế, “quỷ” (daimonion) ở Mc 1,39, song song với “tà thần” (pneuma to ponêron) ở Lc 7,21.
Người thuật chuyện kể sứ vụ Đức Giêsu và những ai đi theo người ở Lc 8,1-2: “1 Sau đó, Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần (pneumatôn ponêrôn) và bệnh tật. Đó là bà Maria gọi là Maria Macđala, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ (daimonia),…” Trong Công Vụ các Tông đồ, Phaolô trục xuất tà thần. Luca kể ở Cv 19,11-12: “11 Thiên Chúa dùng tay ông Phaolô mà làm những phép lạ phi thường, 12 đến nỗi người ta lấy cả khăn cả áo đã chạm đến da thịt ông mà đặt trên người bệnh, và bệnh tật biến đi, tà thần (ta pneumata ta ponêra) cũng phải xuất.” Tóm lại, trong Tin Mừng Nhất Lãm, “quỷ” (daimonion), “thần ô uế” (pneuma to akathaton), “tà thần” (pneuma to ponêron) là một.
(3) Những kẻ chống đối cho rằng Đức Giêsu có quỷ và thần ô uế. Ở Mc 3,22, các kinh sư kết tội Đức Giêsu là người có Beelzebul, thủ lãnh của quỷ. Họ nói ở Mc 3,22b: “Ông ấy (Đức Giêsu) có Beelzebul, và rằng: Ông ấy dựa vào thủ lãnh của quỷ mà trừ quỷ.” (Xem song song Mt 10,25; 12,24.27; Lc 11,15-19). Ở Mc 3,22b, Beelzebul là thủ lãnh của quỷ, còn ở Mt 12,24 và Lc 11,15 thì gọi là “quỷ vương Beelzebul.” Đức Giêsu trả lời các kinh sư và nói đến Satan trong dụ ngôn ở Mc 3,23b-26: “23b Làm sao Satan có thể trừ Satan? 24 Nếu một vương quốc chia rẽ chống lại mình, vương quốc ấy không thể đứng vững được. 25 Nếu một nhà chia rẽ chống lại mình, nhà ấy không thể đứng vững được. 26 Nếu Satan dấy lên chống lại mình và chúng bị chia rẽ, chúng không thể đứng vững nhưng sẽ tận số.” Cuối đoạn văn Mc 3,23-29, người thuật chuyện giải thích về tội nói phạm thượng đến Thánh Thần ở Mc 3,30: “Vì họ (các kinh sư) nói: ‘Ông ấy (Đức Giêsu) có thần ô uế (pneuma akatharton ekhei).’” Lời này gợi đến lời kết tội của các kinh sư ở Mc 3,22b: “Ông ấy (Đức Giêsu) có Beelzebul (Beelzeboul ekhei).” Trong Tin Mừng Gioan, những kẻ chống đối đã kết tội Đức Giêsu là người bị quỷ ám. Những người Do Thái nói với Đức Giêsu ở Ga 8,48b: “Chẳng đúng sao, khi chúng tôi nói rằng: Ông là người Samari và là người bị quỷ ám (daimonion ekheis)?” Dịch sát: “người có quỷ.” (Xem Ga 7,20; 8,52; 10,20.21).
2. Ác thần (ponêros) và Satan
Phần này bàn về hai ý: (1) Satan (satanas), quỷ (diabolos) và Ác thần (ponêros) trong Tin Mừng Nhất Lãm; (2) Ác thần (ponêros) trong Tin Mừng Gioan và thư thứ nhất Gioan.
(1) Trong Tin Mừng Nhất Lãm, một số từ tương đương với từ “Satan”. Chẳng hạn, trong phần áp dụng dụ ngôn gieo giống (Mc 4,13-20; Mt 13,18-23; Lc 8,11-15), ba câu song song (Mc 4,13-20 // Mt 13,18-23 // Lc 8,11-15) cho thấy nghĩa tương đương của ba từ: Satan (satanas), quỷ (diabolos) và Ác thần (ponêros): – Mc 4,15: “Những kẻ thuộc loại ở bên vệ đường, nơi Lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì ngay lập tức Satan (satanas) đến và lấy đi Lời đã được gieo nơi họ.” – Mt 13,19: “Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì Ác thần (ponêros) đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường.” – Lc 8:12: “Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ (diabolos) đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ.”
Như thế, ba từ “Satan” (Mc 4,15), “Ác thần” (Mt 13,19) và “quỷ” (Lc 8,12) nói về cùng một nhân vật. Những nơi khác dùng từ Ác thần (ponêros) để chỉ Satan là Mt 5,37; 6,13. Đức Giêsu dạy ở Mt 5,37: “Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác thần (ponêrou).” Kinh Lạy Cha trong Tin Mừng Matthêu (Mt 6,9-13) kết thúc ở Mt 6,13: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ (ponêrou).” Dịch sát: “Ác thần” (ponêros).
(2) Tin Mừng Gioan chỉ dùng 1 lần từ “ponêros” theo nghĩa “Ác thần” trong ch. 17. Đức Giêsu ngỏ lời với Cha của Người ở 17,15: “Con không can thiệp để Cha cất họ khỏi thế gian nhưng để Cha gìn giữ họ khỏi Ác thần (ponêrou).” Trong thư thứ nhất Gioan, hai lần tác giả nói với cộng đoàn: “Anh em đã thắng Ác thần (ponêron)” (1Ga 2,13.14). Ở 1Ga 5,18-19, tác giả viết: “18 Chúng ta biết rằng mọi người được sinh ra bởi Thiên Chúa thì không phạm tội; nhưng Đấng được sinh ra bởi Thiên Chúa giữ gìn người ấy, và Ác thần (ponêros) không đụng đến người ấy được. 19 Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa, còn toàn thể thế gian nằm dưới quyền lực Ác thần (ponêrôi).” Những trích dẫn trên cho thấy trong một số đoạn văn, tính từ Hy Lạp “ponêros” dùng như danh từ và đồng hoá với Satan.
3. Những việc xấu xa (ponêra ta erga)
Kiểu nói “những việc xấu xa” (ponêra ta erga) xuất hiện trong (1) Tin Mừng Gioan và (2) thư thứ nhất Gioan.
(1) Nếu “Ác thần” và “tà thần” liên hệ tới Satan và quỷ thì “những việc xấu xa” (ponêra ta erga) là những việc của quỷ. Trong Tin Mừng Gioan, xuất hiện 2 lần cụm từ “những việc xấu xa” (ponêra ta erga) ở 3,19; 7,7 để nói về hành động chống đối và bách hại Đức Giêsu. Người tuyên bố ở Ga 3,19: “Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa (ponêra ta erga).” Trong ch. 7, Đức Giêsu nói với anh em của Người ở 7,7: “Thế gian không thể ghét các anh, nhưng Tôi thì nó ghét, vì Tôi làm chứng về nó là các việc của nó thì xấu xa (ta erga autou ponêra estin).” Hai câu này nói nói về việc làm của những kẻ chống đối. Khi tìm giết Đức Giêsu, họ đang làm công việc của quỷ. Đức Giêsu nói với những người Do Thái ở Ga 8,41a: “Còn các ông, các ông làm những việc của cha các ông.” Cha của họ trong câu này là quỷ như Đức Giêsu nói với họ ở 8,44a: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông.” Vậy “những việc xấu xa” trong các trích dẫn trên có nghĩa mạnh, đó là những việc của Ác thần, quỷ, Satan.
(2) Tác giả thư thứ nhất Gioan nối kết “Ác thần” với “những việc xấu xa” ở 1Ga 3,11-12: “11 Đây là lời loan báo mà anh em đã nghe từ khởi đầu là chúng ta hãy yêu mến nhau. 12 Không như Cain là kẻ thuộc về Ác thần (ponêrou) nên đã giết em mình. Tại sao Cain đã giết em? Bởi vì các việc của nó là xấu xa (ta erga autou ponêra ên), còn các việc của em nó là công chính.”
Kết luận
Kết luận được trình bày qua ba điểm: (1) ý nghĩa và cách dùng các từ “Satan” (Satanas), “quỷ” (diabolos), “Ác thần” (ponêros); và (2) “quỷ” (daimonion), “thần ô uế” (pneuma to akathaton), “tà thần” (pneuma to ponêron) trong Cựu Ước và Tân Ước; (3) làm gì để không thuộc về thế lực bóng tối?
(1) “Satan”, tiếng Hipri, khởi đầu là danh từ chung, nhưng dần dần được dùng như tên riêng. Nghĩa của từ Satan tiến triển qua hai giai đoạn: (1) Satan là kẻ chống đối, giữa con người với nhau (2Sm 19,23; 1V 11,25); là người kết tội ở trần gian này (Ps 109(108),6). (2) Từ “Satan” được dùng để mô tả những thực tại thượng giới. Ở thượng giới nhân vật Satan tiến triển qua ba bước: (a) là một thiên sứ, hay một loại thiên sứ, làm “công tố viên” trong toà án trên trời (Dcr 3,1-5); (b) thử thách con người như trường hợp ông Gióp; (c) thiên sứ phản nghịch, chống lại ý định của Thiên Chúa bằng cách đưa tội và sự chết vào trần gian (1Sb 21,1; Kn 2,23-24). Satan đối nghịch và làm con người sa ngã. Trong Kh 12,7-9, Satan là thủ lãnh của các thiên sứ phản nghịch. “Quỷ”, tiếng Hy Lạp “diabolos”, tiếng Pháp “le diable”. Ở một số nơi, bản LXX dịch từ Hipri “satan” sang Hy Lạp là “diabolos” (quỷ). Trong các Tin Mừng “Ác thần” được đồng hoá với Satan và quỷ (diabolos). Vậy tuỳ theo mạch văn, Satan, quỷ (diabolos), “Ác thần” là một nhân vật (Mc 4,15 // Mt 13,19 // Lc 8,12).
Một số từ khác để nói về Satan như: kẻ thù (Lc 10,18-19; Mt 13,37-39); Ác thần (Mt 5,37; 6,13; 13,19; Ga 17,15; 1Ga 2,13.14), con mãng xà, con rắn xưa, kẻ mê hoặc (Kh 12,9), thủ lãnh của thế gian (Ga 12,31; 14,30; 16,11). Trong các bản văn giữa hai Giao Ước (les écrits intertestamentaires), tên gọi và kiểu nói ám chỉ Satan: Mastéma (Jubilés X,8-11; XI,5.11; XVII,16). Bélial, Thiên sứ thù nghịch (1QM XIII,11), Thiên sứ bóng tối (1QS III,20-21). Ở 1Tm 3,11; 2Tm 3,3; Tt 2,3, “diabolos” có nghĩa giảm nhẹ: “nói xấu”.
(2) “Quỷ”, tiếng Hy Lạp “daimôn” (danh từ), “daimonion” (tính từ), tiếng Pháp “le démon”. Tiếng Hy Lạp dùng với mạo từ đồng nghĩa với Satan, thủ lãnh của quỷ. Trong Cựu Ước, quỷ được dùng để nói về các thần ngoại, thần giả, tà thần như là những sức mạnh siêu nhiên có thể dẫn con người xa rời Thiên Chúa của Israel. Quỷ ở số nhiều, cùng với những kiểu nói khác: “thần ô uế”, “tà thần” là những thụ tạo siêu nhiên, những thiên sứ phản nghịch, chúng đi theo Satan và chống lại Thiên Chúa. Một trong những hoạt động của Đức Giêsu trong sứ vụ công khai là trừ quỷ, trục xuất thần ô uế và tà thần.
(3) Làm thế nào để con người có thể đứng vững và không thuộc về thế lực bóng tối? Tin Mừng Gioan đề nghị với độc giả bảy điều: (1) Đứng về phía Thiên Chúa để có thể nghe và hiểu giáo huấn Đức Giêsu (Ga 8,47). (2) Đón nhận và tin vào Đức Giêsu, để trở nên con cái Thiên Chúa (Ga 1,12) và có sự sống đời đời (Ga 6,40). (3) Ở lại trong lời Đức Giêsu để luôn là môn đệ thực sự của Người (Ga 8,31). (4) Sống bình an (Ga 14,27) và niềm vui (Ga 15,11) của Đức Giêsu ban tặng. (5) Yêu mến Đức Giêsu và giữ các điều răn của Người để được Đấng Paraclê, Đức Giêsu và Chúa Cha ở lại nơi mình (Ga 14,15-23). (6) Sống điều răn yêu thương để mọi người nhận ra mình là môn đệ Đức Giêsu (Ga 13,34-35). (7) Can đảm trước khó khăn, thử thách và bách hại, bởi vì Đức Giêsu đã thắng thế gian thù ghét (Ga 16,33) và thủ lãnh thế gian đã bị xét xử (Ga 16,11).
Satan với quyền lực của nó, vẫn chỉ là thụ tạo của Thiên Chúa. Quyền năng của Thiên Chúa (Đấng tạo hoá, Créateur) và Đức Giêsu Kitô, Con Một của Người là vô cùng lớn lao so với thế lực của Satan (thụ tạo, créature). Bằng cách bước vào tương quan nhân vị ngày càng mật thiết hơn với Đức Giêsu, độc giả đang sống lời Phaolô viết ở Rm 8,38-39: “38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta”.