Home Knowledge Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ

Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ

21

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta tìm hiểu về thực hành trừ quỷ hay trừ tà dưới nhãn quan và theo quy định của Giáo Hội.

Trừ quỷ trong Tân Ước

Trừ quỷ là hành động đuổi hay trục xuất ma quỷ hay thần dữ ra khỏi người, nơi chốn hay đồ vật được cho là bị quỷ ám hay bị quỷ quấy phá, hoặc có thể trở thành nạn nhân hay dụng cụ cho sự ma mảnh, ảo quyệt của quỷ.

Từ exorkizo (εξορκίζω: “thề, truyền lệnh, trừ quỷ”) được sử dụng trong bản dịch Bảy Mươi (Stk 24,3 = thề; I V 22,16 = thề), và trong Mt 26,63, “Ta bắt ngươi tuyên thệ nhân danh Thiên Chúa hằng sống…” Danh từ exorkistes (ἐξορκιστής) trong Cv 19,13, được áp dụng cho những người Do Thái đi đây đi đó tuyên thệ để trừ quỷ. Và như vậy, trừ quỷ bằng cách tuyên thệ là ý nghĩa đầu tiên của việc trừ quỷ. Lời tuyên thệ này nhân danh Thiên Chúa hay Đức Giêsu, và như vậy đó là một hành vi hay nghi thức tôn giáo.

Tin Mừng Marcô phác họa Đức Giêsu như là một người trừ quỷ rất nhiều lần. Thật vậy, chúng ta không biết có nhân vật nào vào thời cổ mà việc trừ quỷ lại quan trọng đến thế. Matthêô và Luca gợi ý rằng việc trừ quỷ có ý nghĩa để hiểu được Đức Giêsu (Mt 12,28-29 // Lc 11,20-21). Tuy nhiên, một trong những điều khó hiểu của Tin Mừng Gioan là không đề cập gì đến việc trừ quỷ, có lẽ vì chúng được cho là quá bình thường để bày tỏ vinh quang Ngài trước các … phép lạ là hiện tượng quyền năng hơn (Ga 2,11).

Quyền năng của Đức Giêsu trên ma quỷ là một trong những dấu hiệu Thiên Sai (Mt 12,23.28; Lc 11,20). Ngài trừ quỷ bằng ngón tay hay thần khí của Thiên Chúa chứ không phải là đồng bọn của ma quỷ như các đối thủ cáo buộc (Mt 12,24.27; Mc 3,22; Lc 11,15.19); Ngài không chỉ sử dụng quyền năng được ủy thác mà còn quyền năng cá nhân, trực tiếp và ra lệnh cho ma quỷ (Mc 9,24; cf. 1,25 etc.): “Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau” (Mt 8,16). Đôi khi Ngài trừ quỷ từ xa như trường hợp con gái của người phụ nữ Canaan (Mt 15,22 tt.; Mc 7,25). Đôi khi, thần dữ bị trục xuất được phép nói ra sự nhìn nhận nó về Đức Giêsu như là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) và phàn nàn rằng Ngài đến để gây khó dễ cho chúng “trước thời gian”, nghĩa là trước khi chúng bị xử phạt (Mt 8,29 tt; Lc 8,28 tt.). Trong Luca 13,32, Đức Giêsu phân biệt giữa trừ quỷ và chữa lành bệnh tật.

Khi còn tại thế, Đức Kitô cũng ban cho các Tông đồ và môn đệ quyền trừ quỷ nhân danh Ngài (Mt 10,1 và 8; Mc 6,7; Lc 9,1; 10,17), và cũng hứa với những người tin một quyền lực như thế (Mc 16,17). Nhưng hiệu quả của quyền năng được ủy thác này là có điều kiện, như chúng ta thấy chính các tông đồ cũng không phải lúc nào cũng thành công khi trừ quỷ: vài loại quỷ chỉ có thể trừ bằng cách cầu nguyện và ăn chay (Mt 17,15.20; Mc 9,27-28; Lc 9,40). Nói cách khác, sự thành công của thực hành trừ quỷ của các Kitô hữu, nhân danh Đức Kitô, phải chịu những điều kiện chung dựa trên hiệu quả của lời cầu nguyện và quyền năng đoàn sủng. Thánh Phaolô (Cv 16,18; 19,12), và hẳn nhiên các tông đồ và những môn đệ khác đều thường xuyên sử dụng quyền trừ quỷ. Và Giáo Hội vẫn tiếp tục sử dụng cho đến ngày nay.

Trừ quỷ trong Giáo Hội sơ thời

Dựa vào các tác giả sơ thời, ta biết rằng vào thế kỷ đầu tiên thì không chỉ hàng giáo sĩ mà cả giáo dân cũng có thể trừ quỷ nhờ quyền năng Thiên Chúa, và sự thành công của họ được các nhà hộ giáo cho rằng đó là lý chứng mạnh mẽ cho tính thần thiêng của Kitô giáo (Justin Martyr, First Apology 6; Dialogue with Trypho 30 và 85; Minutius Felix, Octavius 27; Origen, Against Celsus I.25; VII.4; VII.67; Tertullian, Apology 22, 23; etc.). Ở những thế kỷ đầu tiên này, không có phương tiện ma thuật hay mê tín nào được sử dụng, các chứng nhân nói rằng hình thức trừ quỷ chỉ là một lời tuyên thệ truyền cho ma quỷ nhân danh Thiên Chúa, và đặc biệt là Đức Kitô chịu đóng đinh.

Nhưng đôi khi vài hành động có tính biểu tượng được thêm vào lời, chẳng hạn như thổi hơi (insufflatio), hay đặt tay trên chủ thể hay làm dấu thánh giá. Thánh Justinô nói “quỷ bay đi khi các Kitô hữu chạm tay vào hay thổi hơi” (Second Apology 6), chừng như gặp phải ngọn lửa đốt như Thánh Cyrilô thành Giêrusalem nói thêm vào (Catechetical Lectures 20.3). Ôrigen nói đến việc đặt tay, và Thánh Ambrôsiô (Paulinus, Vit. Ambr., n. 28, 43, P.L, XIV, 36, 42), Thánh Êphraem Syrus (Gregory of Nyssa, De Vit. Ephr., P.G., XLVI, 848) và những người khác đã dùng nghi lễ này khi trừ quỷ. Dấu thánh giá, cách đơn giản và ngắn gọn nhất để tuyên xưng đức tin của một người vào Đấng chịu đóng đinh và cầu khẩn quyền năng của Ngài, đã được các giáo phụ tán dương về hiệu quả của nó chống lại các thứ quấy nhiễu của ma quỷ (Lactantius, Divine Institutes IV.27; Athanasius, On the Incarnation of the Word 47; Basil, In Isai., XI, 249, P.G., XXX, 557, Cyril of Jerusalem, Catechetical Lectures 13.3; Gregory Nazianzen, Carm. Adv. iram, v, 415 sq.; P.G., XXXVII, 842). Các giáo phụ còn khuyên rằng lời truyền và lời nguyện đi kèm nên được diễn đạt bằng những lời trong Kinh Thánh (Cyril of Jerusalem, Procatechesis 9; Athanasius, Ad Marcell., n. 33, P.G., XXVII, 45). Nghi thức trừ quỷ hiện nay của Nghi thức Rôma hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của các giáo phụ và là bằng chứng cho thấy có liên tục của Giáo Hội Công Giáo trong vấn đề này.

Hai hình thức trừ quỷ

Có hai loại trừ quỷ (hay hai hình thức). Hình thức đơn giản và hình thức trọng thể. Hình thức đơn giản được tìm thấy ở hai nơi: trước hết là nghi thức dành cho những ai chuẩn bị chịu phép rửa tội, Nghi thức Dẫn nhập Kitô giáo dành cho người lớn (RCIA) và Nghi thức rửa tội cho trẻ em, cả hai được gọi là hình thức trừ quỷ đơn giản; thứ đến là trong phần phụ lục (appendix) Trừ quỷ và những lời cầu liên quan (Exorcisms and Related Supplications) của sách nghi thức gồm có một số lời cầu nguyện mà giáo dân có thể sử dụng.

Loại thứ hai là nghi thức trọng thể chỉ có thể được giám mục hay linh mục được bản quyền địa phương cho phép rõ ràng thì mới có thể thi hành được. Hình thức này nhằm “nhằm trục xuất ác thần satan và giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền thiêng liêng Chúa Giêsu đã ủy thác cho Hội Thánh”. Ta có thể đọc lại số 1673 của sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nói về nghi thức trừ quỷ: “Trong nghi thức Trừ Tà, nhân danh Chúa Kitô, Hội Thánh công khai và có thẩm quyền cầu xin để một người hay một sự vật được Thiên Chúa bảo vệ khỏi quyền lực của ác thần Satan và giải thoát khỏi ách thống trị của nó. Chúa Giêsu đã từng trục xuất thần dữ (x. Mc 1,25 tt); chính Người ban cho Hội Thánh quyền và nhiệm vụ trừ tà (x. Mc 3, 15;6,7.13;16,17). Nghi thức cử hành bí tích Thánh Tẩy có công thức Trừ Tà đơn giản. Nghi Thức Trừ Tà trọng thể phải do một linh mục cử hành với phép của giám mục. Linh mục trừ tà phải thận trọng và giữ nghiêm ngặt các qui định của Hội Thánh. Nghi thức Trừ Tà nhằm trục xuất ác thần Satan và giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền thiêng liêng Chúa Giê-su đã ủy thác cho Hội Thánh. Mục đích này khác 619 hẳn với các việc chữa bệnh, nhất là các bệnh tâm thần: chữa bệnh là công việc của y khoa. Do đó, trước khi cử hành nghi thức Trừ Tà, phải điều tra cẩn thận để chắc chắn đây là trường hợp quỷ ám chứ không phải một dạng bệnh lý (x. CIC 1172)”

Cuốn Nghi thức trừ tà hiện nay là bản duyệt lại của bản năm 1614. Đây là cuốn nghi thức bằng tiếng Latinh (De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam) gởi đến các Hội đồng giám mục quốc gia để dịch sang tiếng địa phương. Những bản dịch này phải chính xác và trung thành với bản gốc Latinh và được Thánh bộ phụng tự công nhận, theo giáo luật.

Trong khi từ “trừ tà” nói đến việc trục xuất ma quỷ, thì nó không chỉ áp dụng cho những người (hay những vật dụng, nơi chốn) bị quỷ ám rõ ràng. Hãy nhớ lại khi rửa tội cho trẻ em, linh mục hay phó tế đọc một lời nguyện trừ quỷ trên đứa bé và xức dầu trước khi rửa tội:

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Ngài đã sai Con một của Ngài đến thế gian để xua tan quyền lực Satan, thần dữ, và sau khi giải thoát con người khỏi chốn tối tăm, Ngài đưa con người vào ánh sáng huy hoàng của vương quốc Ngài: chúng con khiêm tốn cầu xin Ngài giải thoát (các) em này khỏi Tội Nguyên Tổ, xin làm cho (các) em trở nên một đền thờ để vinh danh Ngài, và xin sai Thánh Thần Chúa đến ngự trong (các) em. Nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.”

Lời nguyện này không có nghĩa là mọi đứa bé đều bị quỷ ám nhưng lời nguyện trừ quỷ này chỉ muốn nói rằng cho đến khi chịu phép rửa thì đứa bé vẫn ở trong tình trạng tội nguyên tổ. Và lời nguyện này được các giáo sĩ thi hành phép rửa tội đọc. Theo Giáo Luật, điều 861 §1, thì thừa tác viên thông thường của bí tích rửa tội là giám mục, linh mục hay phó tế: “Thừa tác viên thông thường của bí tích Rửa Tội là Giám Mục, Linh Mục và phó tế, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 530,1o (LG 26 ; LG 29 ; PO 5)”. Ta có thể thấy đây là vết tích của một thực hành cổ xưa mà trong đó người trừ quỷ có thể đuổi quỷ ra khỏi người chưa chịu phép rửa tội.

Trừ quỷ trong bí tích Rửa tội

Sơ thời, thực hành trừ quỷ cho các tân tòng được đưa vào Giáo hội như là sự chuẩn bị cho bí tích Rửa tội. Điều này không có nghĩa là họ bị xem như có quỷ ám nhưng là hệ quả của tội nguyên tổ (và tội của chính mình khi họ là người trưởng thành), ít nhiều họ chịu ảnh hưởng của quyền năng thần dữ, và vì thế ân sủng của bí tích Rửa tội sắp giải thoát họ khỏi sự thống trị này.

Thực hành trừ quỷ này là mào đầu có tính biểu tượng cho một trong những hiệu quả của bí tích tái sinh; và vì nó được dùng trong trường hợp trẻ em không có tội mình làm, nên Thánh Augustinô nói nó hàm ý về tội nguyên tổ, chống lại lạc thuyết Pêlagiô (Ep. cxciv, n. 46. P.L., XXXIII, 890; C. Jul. III, 8; P.L., XXXIV, 705,). Thánh Cyrilô thành Giêrusalem (Procatechesis 14) mô tả chi tiết thực hành trừ quỷ trong bí tích rửa tội, trong đó việc xức dầu trừ quỷ là một phần của thực hành trừ quỷ ở phương Đông. Chứng từ sơ thời duy nhất của phương Tây đề cập đến việc xức dầu như là một phần của nghi thức trừ quỷ trong bí tích rửa tội là cuốn Arabic Canons của Hippolytus (n. 19, 29). Exsufflatio, thở ra, ứng viên thở ma quỷ ra, đôi khi là một phần của nghi thức, trong khi Insufflatio, hoặc hít vào Thần khí, do thừa tác viên hay những phụ tá, tượng trưng cho sự tràn đầy ân sủng thánh hóa của bí tích. Những nghi thức cổ xưa này được Giáo Hội giữ lại cho đến ngày nay trong nghi thức rửa tội trọng thể.

Người trừ quỷ theo Giáo luật

Sơ thời, các tác giả như Thánh Gioan Kim Khẩu và Tertullianô nói rằng bất kỳ ai vì mình đã chịu phép rửa tội thì cũng có thể trừ quỷ. Nhưng đây không phải một nghi thức mà chỉ là một sự nhân danh, nhân danh Đức Giêsu. Vài thế kỷ đầu tiên đã có tình trạng như vậy. Cho đến Công đồng Carthage IV [398], lần đầu tiên ta thấy có chức trừ quỷ. Đây vẫn là một trong các chức nhỏ trong nhiều thế kỷ mãi cho đến năm 1972 thì Đức Phaolô VI xét duyệt lại và thu gọn các chức nhỏ.

Ngày nay, người Công giáo đã quen thuộc với ý nghĩ rằng các đại chủng sinh, hay các thầy, là những người đang học để trở thành linh mục, và sẽ chịu chức phó tế trước khi thụ phong linh mục. Tuy nhiên, trước đây không lâu lắm, tất cả các đại chủng sinh đều được chịu chức “trừ quỷ” (exorcist). Chỉ vài thập niên cách đây, Giáo hội phong 4 chức nhỏ (minor orders) cho tất cả các đại chủng sinh: giữ cửa, trừ quỷ, đọc sách và giúp lễ. Nguyên thủy, tên gọi của 4 chức nhỏ này nói lên vai trò của sứ vụ được đảm nhiệm trong hoạt động phụng vụ. Chẳng hạn như thầy giúp lễ là những người đốt nến và cầm nến trong các đám rước. Có vẻ như vào một thời điểm nào đó trong lịch sử sơ thời của Giáo Hội thì những người trừ quỷ không phải là linh mục, song được ban cho vai trò trừ quỷ để có thẩm quyền trừ quỷ khỏi những dự tòng (catechumen), những thành viên của cộng đoàn Giáo Hội chưa được rửa tội. 

Vào năm 1972, Đức thánh cha Phaolô VI đã đơn giản hóa tiến trình chịu chức linh mục và loại bỏ các chức nhỏ. Trong tự sắc Ministeria quaedam, Đức thánh cha đã công bố rằng từ nay từ “các chức nhỏ” sẽ được thay thế bằng “các sứ vụ” (ministries). Và 4 chức nhỏ trước đây giờ chỉ còn 2 được xem như là những “sứ vụ”: đọc sách và giúp lễ.

Thế nhưng một thể loại trừ quỷ khác liên quan đến người, nơi chốn và vật thực sự bị quỷ ám, thì đây là một vấn đề khác, một chủ đề cho những điều khoản Giáo Luật khác. Theo Giáo Luật thì người trừ quỷ phải là một linh mục, nhưng điều 1172 §2 nói: “Đấng Bản Quyền địa phương chỉ ban phép trừ tà cho một Linh Mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn (CIS 1151).” Vì thế, không phải mọi linh mục bất kỳ, chỉ vì đã lãnh nhận chức linh mục, mà đương nhiên được phép trừ quỷ. Điều 1172 §1: “Không ai có thể trừ tà cách hợp pháp cho những người bị quỷ ám, trừ khi có phép đặc biệt và minh nhiên của Đấng Bản Quyền địa phương”. Một linh mục có thể được giám mục chỉ định làm người trừ quỷ trên cơ bản ổn định hay cho một dịp đặc biệt (ad actum). Dù sao thì người trừ quỷ cũng phải theo hướng dẫn chặt chẽ của giám mục.

Trừ quỷ trọng thể (solemn exorcism) là một hành vi công khai của Giáo Hội. Vì thế, nó không được thi hành bởi một cá nhân linh mục mà không có phép của giám mục giáo phận (c. 1172.1). Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo (1673) cũng hoàn toàn ăn khớp với Giáo luật về điều này. Và theo ĐHY Jorge Arturo Medina Estevez, bộ trưởng Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, những dấu hiệu bị quỷ ám gồm: nói những lời bằng những thứ tiếng lạ hoặc hiểu được chúng (trong điều kiện của người bị ám là người không rành các ngôn ngữ đó, như tiếng Aram chẳng hạn); nói ra những điều giấu kín hay ở cách xa đó; có sức mạnh khác thường so với điều kiện của một người kết hợp với sự xúc phạm nặng nề Thiên Chúa, Đức Maria, các thánh, thánh giá và những ảnh tượng thánh.

Trước hết, hành vi trừ tà trọng thể phải được thi hành với thẩm quyền, nghĩa là với sự chuẩn nhận của giáo quyền địa phương, cụ thể là giám mục giáo phận. Thứ đến, trước khi bắt đầu trừ tà, thật quan trọng khi phải xác quyết rằng đây là trường hợp quỷ ám đặc biệt mà Giáo Hội đang đối mặt. Có nhiều người đang điều trị y khoa nào đó, gồm cả bệnh tâm thần, có thể có những triệu chứng bên ngoài giống như bị quỷ ám. Trong cuộc họp báo ngày 26 tháng Giêng 1999, ĐHY Jorge Arturo Medina Estevez, bộ trưởng Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, đã nhấn mạnh rằng có rất ít người thực sự bị quỷ ám, chỉ có 1 trên 5.000 trường hợp được tường trình là bị quỷ ám thật sự. Vì thế, người trừ quỷ phải phân biệt giữa người bị quỷ ám thật sự và những người bị tâm bệnh. Vì thế, công việc xác minh rất quan trọng để tránh trường hợp bệnh nhân cần được điều trị bởi những nhà chuyên môn y khoa thì lại được người trừ quỷ xử lý! Chính vì công việc xác minh quan trọng như thế nên Giáo luật, điều 1172 §2 mới nói rằng đấng bản quyền chỉ ban phép trừ tà cho “một linh mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn”.

Giáo dân có được trừ quỷ?

Sách Công vụ 19,13-20 kể lại câu chuyện: “Ông Xikêua nọ, thượng tế Do Thái, có bảy con trai thường làm như vậy. Nhưng tà thần đáp: “Đức Giêsu, tao biết; ông Phaolô, tao cũng tường; còn bay, bay là ai? ” Rồi người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. Mọi người ở Êphêsô, Do Thái cũng như Hy Lạp, đều biết chuyện ấy; ai cũng sợ hãi, và thiên hạ tán dương danh Chúa Giêsu”. Trong trường hợp này, những người trừ quỷ là những người không có chuyên môn.

Giáo dân có được phép trừ quỷ không? Chúng ta có câu trả lời từ ĐHY Ratzinger, Bộ trưởng Thánh bộ Giáo lý đức tin. Nhân có một số nhóm cầu nguyện nhằm mục đích thoát khỏi ảnh hưởng của ma quỷ, họ tổ chức những cuộc hội họp do giáo dân hướng dẫn, ngay cả khi có linh mục hiện diện. Trong thư gởi các đấng bản quyền về các nguyên tắc trừ tà, ngày 29 tháng Chín 1985, ĐHY Ratzinger đã nhắc lại các điều khoản Giáo Luật trên về trừ tà và nói tiếp: “Từ những quy định này, giáo dân không được phép sử dụng công thức trừ tà chống lại Satan và các thiên thần sa ngã, trích đoạn từ công thức của ĐTC Lêô XIII, hay dùng toàn bản văn của nghi thức trừ tà này. Các giám mục nên cảnh báo giáo dân về điều đó, nếu cần thiết. Cuối cùng, cũng vì các lý do đó, đòi hỏi các giám mục phải cảnh giác – dù trong trường hợp không liên quan đến việc thực sự bị quỷ ám –những ai không được ban năng quyền thì không thể hướng dẫn các cuộc hội họp có đọc lời cầu mà trong đó ma quỷ bị chất vấn trực tiếp và căn tính của chúng được tìm biết.”

Nghi thức trừ quỷ trọng thể (Major Exorcism) chỉ được thi hành bởi một linh mục có thẩm quyền hay giám mục (sacerdos). Giáo dân có thể hiện diện trong nghi thức, hỗ trợ công việc cho linh mục trừ quỷ bằng lời kinh của họ được đọc các riêng tư hay được chỉ dẫn trong nghi thức. Tuy nhiên, bản văn De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam lưu ý rằng giáo dân không được đọc bất kỳ lời nguyện nào dành cho linh mục (bản dịch Anh ngữ Exorcisms and Related Supplications, số 35), không chỉ vì các lời nguyện chỉ dành cho những người được phong chức để hành động nhân danh Đức Kitô là Đầu (in persona Christi capitis), nhưng để bảo vệ giáo dân khỏi nhưng tổn hại tinh thần có thể. Khi người bị ám là nữ giới thì ít nhất nên có một người nữ khác hiện diện vì sự đứng đắn và thận trọng. Người trừ quỷ không bao giờ ở một mình với người bị ám, dù là khi tư vấn hay là trong khi cử hành nghi thức.

Trừ quỷ là lời cầu nguyện rơi vào thể loại á bí tích, nghĩa là một trong số các dấu hiệu thánh do Giáo hội thiết lập để “thánh hóa một số hoàn cảnh trong cuộc sống ” (Toát yếu Giáo lý Hội thánh Công giáo, số  351), vì thế khác với bảy bí tích của Giáo Hội do chính Đức Kitô thiết lập. Bí tích Thống hối tha thứ tội lỗi và giao hòa chúng ta với Giáo Hội, bí tích Rửa tội ban ân sủng để chiến đấu với ma quỷ và với lên trong nhân đức. Như là một á bí tích, trừ quỷ chuẩn bị cho một người đón nhận ân sủng. Vì trừ quỷ là á bí tích, như là một lời cầu chúc, nên những người được lãnh nhận phép “trừ quỷ trọng thể” là những người được quy định bởi Giáo luật, điều 1170: “Các phép lành phải được ban trước hết cho những người Công giáo, nhưng cũng có thể được ban cho các dự tòng, và cho cả những người không Công giáo nữa, trừ khi Giáo Hội ngăn cản điều đó”. Vì thế, những người sau đây được lãnh nhận phép đặc biệt này nếu được cho là cần thiết: 1) Những người Công giáo; 2) Các dự tòng; 3) Những Kitô hữu không Công giáo xin lãnh nhận; và 4) Các tín hữu không Kitô giáo có ý ngay lành muốn thoát khỏi ảnh hưởng của ma quỷ. Những trường hợp liên quan đến người không Công giáo, nên báo cho giám mục biết (cf. ERS, số 18).

Cuốn nghi thức trừ tà De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam có 2 chương và hai phụ lục. Phụ lục thứ 2 là Những kinh nguyện có thể được giáo dân sử dụng cách riêng tư trong cuộc chiến chống lại quyền lực của bóng tối (Prayers which may be used privately by the faithful in the struggle against the powers of darkness). Đây là những lời kinh giúp giáo dân chiến đấu chống lại cám dỗ của tội lỗi hay những cuộc tấn công thiêng liêng, có thể đọc riêng tư.

Kết luận

Ma quỷ là có thật và chúng đang hoạt động dưới mọi phiên bản của sự dữ trên thế giới và ngay trong con người chúng ta. Trong bài giảng ngày 12.10.2018 tại nguyện đường Santa Marta, chú giải đoạn Tin mừng Luca 11,15-26, Đức Phanxicô đã nói: “Khi ma quỷ chiếm hữu tâm hồn của một người, nó lấy đó làm nhà và không muốn rời xa, cố gắng làm hư hỏng con người ấy thậm chí tàn phá về thể lý. Cuộc chiến đấu giữa thiện và ác trong con người chúng ta là cuộc chiến đấu thật sự giữa Thiên Chúa và con rắn xưa, giữa Đức Giêsu và ma quỷ. Mục đích và ơn gọi của ma quỷ là “phá hủy công trình của Thiên Chúa”. Khi ma quỷ không thể phá hủy “diện đối diện” vì có Thiên Chúa là sức mạnh lớn hơn bảo vệ con người, thì nó vốn xảo quyệt và “khôn hơn cáo” luôn tìm cách tái chiếm hữu con người ấy”. Chính vì thế, ĐHY Medina Estevez đã khẳng định tính chính đáng và cần thiết của công việc trừ quỷ hay trừ tà trong Giáo Hội: “Trừ tà dựa trên niềm tin của Giáo hội cho rằng Satan và những thần dữ khác hiện hữu và hoạt động của chúng nhắm đánh lạc hướng con người khỏi con đường cứu rỗi. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta rằng ma quỷ là những thiên thần sa ngã vì tội lỗi, rằng chúng là những hữu thể thiêng liêng có trí khôn ngoan và sức mạnh, nhưng tôi nhấn mạnh rằng ảnh hưởng xấu của ma quỷ và những người theo chúng thường được thực hiện qua việc lừa đảo và gây nhầm lẫn. Như Đức Giêsu là Sự thật (cf. Ga 8,44) thì ma quỷ là kẻ dối trá thượng thừa. Nó lừa phỉnh con người khi làm cho con người tin rằng hạnh phúc nằm ở tiền bạc, quyền lực và ham muốn xác thịt. Nó dụ dỗ con người nghĩ rằng mình không cần Thiên Chúa, rằng ân sủng và ơn cứu rỗi là điều không cần thiết. Nó còn lừa phỉnh con người khi giảm nhẹ ý thức về tội lỗi hay thậm chí loại bỏ nó bằng cách thay thế lề luật của Thiên Chúa như là tiêu chuẩn luân lý với các thói quen hay quy ước của đa số”.

Trong khi nhiệm vụ trừ quỷ là đặc quyền của Giáo Hội được trao phó cho những giám mục và những linh mục được ủy nhiệm rõ ràng theo giáo luật, mọi người đều có nhiệm vụ tự giải thoát mình khỏi tội lỗi là những “kênh” mà ma quỷ có thể thâm nhập và tàn phá tâm hồn, nhất là tội kiêu ngạo. Cha Juan José Gallego, Dòng Đaminh, linh mục trừ quỷ của Tổng giáo phận Barcelona đã nói với nhật báo El Mundo rằng theo kinh nghiệm của mình thì “kiêu ngạo” là tội mà ma quỷ thích nhất, thường thì do hoang tưởng bệnh hoạn về tài năng của mình mà ra. Điều này cũng không gì khó hiểu vì đây là tội mang “thương hiệu” của ma quỷ: chính kiêu ngạo đã biến thiên thần thành ma quỷ nên nó cũng hãnh diện thừa ở vị trí thứ nhất trong “bảy mối tội đầu”: Thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo. Vì thế, hãy tự bảo vệ mình trước sự lừa phỉnh gây hoang tưởng của ma quỷ trước khi cậy nhờ đến người trừ quỷ chuyên môn!

Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
(Tài liệu tổng hợp)